Thơ là gì?
– “Thi tại ngôn ngoại”.
Là cái gì mà ta không thể giải thích bằng lời; là “cái gì siêu thoát ngoài ước lệ, trên lý trí, nó rung động theo nhịp điệu vũ trụ”, cho nên “cái gì có rung động là có thơ”. “Trong âm nhạc, trong hội họa, trong kiến trúc, nói rộng ra, ở khắp ngành nghệ thuật, và trong cả đạo lý, trong hành động, một khi đã gạn lắng những cạn đục mà còn lại tinh hoa” đấy là thơ. “Một bài thơ là sự phối hợp của âm thanh, chữ, hình ảnh, biểu hiện theo những niêm luật rõ rệt hay tiềm tàng”. Làm xong một bài thơ người thi sĩ chưa thể gọi là hoàn tất sáng tác của mình, mà phải chờ đợi một tác giả thứ hai tức là độc giả, nhóm mệnh danh họ là “thi nhân” (người cảm thụ được thơ). Một bài thơ “sống” là bài thơ đủ khả năng mang sứ mệnh bắc nhịp cầu giữa thi sĩ và thi nhân (độc giả) truyền cảm và gây được rung động.
Cụ thể hơn: Mùa thu, trong buổi tà dương, một chiếc lá bèo rơi. Cảnh ấy “nên thơ”. Chiếc lá là “bài thơ”. Người thứ nhất thụ cảm, ghi lại và truyền lan “bài thơ chiếc lá” là thi sĩ. Người đọc bài thơ, rung động do sự truyền lan ấy là thi nhân.
“Thơ” như thần linh: con đồng là “thi sĩ”, tạo được “bài thơ cảm thông”, nối thần linh với đệ tử là “thi nhân”.
“Thơ” như tôn giáo: giáo sĩ là “thi sĩ” tạo nên “bài thơ giác ngộ” cho tín đồ “thi nhân”.
“Thơ” như tình yêu: “thi sĩ” là người cung nữ thả “bài thơ lá thắm”, người vớt lá là thi nhân.
Ở các ngành nghệ thuật:
“Thi sĩ” truyền và ghi được cái rung động tuyệt vời lên bài thơ tranh: ấy là họa sĩ (nếu không, chỉ là họa công). Mà “thi nhân” đây là người cảm được cái rung động của bức tranh.
“Thi sĩ” Bá Nha đầu tiên cùng rung động với cái non cao nước chảy, trên bài –thơ-đàn: ấy là nhạc sĩ (những người đánh lại khúc Cao Sơn, Lưu thủy chỉ là Nhạc – công ). Mà “thi nhân” là người tri âm Tử Kỳ…
Người làm bài thơ theo nghĩa thông thường, chưa hẳn là thi sĩ hay thi nhân, vì chưa hẳn đã đặt được “thơ”. Hãy gọi riêng là Thi – gia, một danh từ trong nghề.
Là “thi sĩ” nếu thi gia hoặc văn gia đạt đươc “Thơ”.
“Thơ” là cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao siêu, cái hình ảnh sự khắc khoải bất diệt của muôn vật: cõi Vô Cùng.”
Quan niệm về Sống.
Luận về Sống, Xuân Thu viết:
Cái lầm lỡ nhất của loài người, tai hại nhất và bi thảm nhất, có lẽ cuộc đời đi tìm hạnh phúc. Cái lầm ấy đã làm bao nhiêu cuộc đời trở nên bao nhiêu tấm thảm kịch. Người ta cuồng dại xô nhau đi tìm hạnh phúc, cái mầm đau khổ.
“Ta muốn quan niệm một cuộc sống không lấy hạnh phúc làm đích”.
Sống, đó là một sự đương nhiên, kẻ hiền giả phải tìm cách sống cho xứng đáng, phong phú, nhịp nhàng với cuộc sống lớn của vũ trụ, cao quý và đường bệ.
“SỐNG, đó là tất cả bí quyết của cuộc sống. Đạt được, an nhàn bao nhiêu”.
Đứng tựa lan can trên tầng cao, buông mắt nhìn xuống cái sinh hoạt động rộn rịp trong ánh sáng. Thiên hạ đang bị ràng buộc quây quần trong cuộc sống. Sự đòi hỏi của cái ăn, cái mặc, cái thú vui ở đời tựa như những chùm dây leo, cỏ dại đầy gai góc đang phủ trùm lên tuệ giác của con người. Cuộc sống lôi cuốn đến mỏi nhừ, uể oải, liên tục không một phút giây lơi lỏng nào cho con người thoát ra ngoài vòng nhân sinh, nhìn lại tốc độ quây cuồng trong cuộc sống. Vượt khỏi hấp dẫn lực ấy, ta mới có thể nói là đã “nghĩ trong khi sống”.
Quan niệm về Vũ Trụ và Nhân Sinh.
Trời đất bao la, con người chẳng qua như “cỏ nội hoa hè”. Từ thuở mịt mù nào cho đến ngày không bao sẽ tới, sóng gió không ngừng trong vũ trụ, mà ta chỉ là hình bóng mập mờ của một cát bụi mong manh, tan biến trong một khoảnh khắc khoảng như không.
…Trước khi sinh, ta đã có tự bao giờ, trong sức sống vô cùng tận của Tạo – vật, – và ta vô hình tức là ta vô hạn. Từ lúc có hình thể ta đã bắt đầu nằm thu trong cái vỏ nhất định, mỗi ngày một dày đặc cách biệt ta với vạn vật. Và ta đã thành tôi riêng chiếm một khu đời chật hẹp, đối phó với những cái tôi khác, với sự vật bên ngoài. Bao nhiêu nhu cầu, bao nhiêu cá tính đã làm cho những cái tôi khác nhau ngày càng cách biệt. Một dòng khí huyết đã tách ra từng giọt riêng cả những anh em cùng cha mẹ đã biệt lập, mỗi người một cảnh đời một cõi sống. Mỗi người một phận, không còn chung lẫn như, hồi thơ ấu ngây dại.
Từ cái thế duy nhất đã chuyển qua cái thế song lập; Tôi với đối Phuong là vạn vật, là tất cả những gì không phải tôi. Tôi đã tự xây một bức thành bao kín, mỗi ngày một dày, một kiên cố, bưng bít mịt mùng như một dinh cơ, một nhà phú hộ quê, như một nhà hầm chôn của – ai có truyện người hà tiện trong truyền thuyết Pháp, một đêm kia chết thảm trong hầm tự xây?
Tôi đã thu gọn trong kén, như một con tằm tự vương mãi dây oan.
Ôi! Hẻo lánh là chừng nào! Hiu quạnh là chừng nào! Mịt mù thảm thiết!
Song con tằm vẫn nhớ ngàn dâu, đã tìm đường thoát kén.
Và trong vòng lao túng, ta vẫn nhớ cõi vô cùng, và đã tìm cách cảm thông với nguồn đời vô tận. Cái Tôi trần tục, cái Tôi nặng duyên kiếp, còn nằm trong vỏ kín, mà ta đã giác ngộ, đã giải thoát, hòa lẫn với thinh thanh, rung động nhịp nhàng với Nhạc thiên thu, theo Điệu tuyệt vời và tuyệt đối.
Thoát cái tôi dày đặc, tối tăm, ta đã sáng suốt vươn tới cõi Vô-cùng bằng Tình Yêu, bằng Thơ, bằng Tin-tưởng.
…Từ nguyên tử đến tinh đẩu, đời là một vũ trụ động đậy. Thời gian chỉ nên xem như ảo ảnh của sự luân chuyển không ngừng.
Thể chất là hiện tại. Đổi thay là quá khứ. Tỏa lan là chết. TĨnh tụ là Sống.
Hoa cỏ, người vật quay theo cái guồng Thiên Nhiên. Bao nhiêu đợt sống không hồn trôi quanh con bờ vô tận.
…Thích-Ca dạy chúng sinh thoát kiếp luân hồi; Phật là những vị siêu nhân biết đứng lại để sức Mạnh hấp dẫn vạn vật tới con đường sáng.
Quan niệm về Trí Thức.
Luận về Trí thức, (trích toàn bài) nhóm Xuân Thu viết: “Trí thức là gì”?
Thế nào là “kẻ trí thức”? – Làm sao tới được Trí Thức?
Quan hệ trọng đại của vấn đề.
Hình ảnh tốt đẹp và thật nhất của trí thức, là viên ngọc Biện Hòa chứa trong hòn đá. Phải phá hết những chất dày đặc kết bên ngoài, để sáng suốt thu được cả bốn Phuong xán lạn vào trong mình. Cảm thông với vũ trụ, hội được ý Nhạc của Trời Đất.
Sáng và biết sáng.
Ta không phải là ngọn đèn soi vào kẽ ngách sự vật. Ta đã sáng suốt được sự vật, nằm trong sự vật. Sự vật nằm trong ta.
Ta đã ý thức sự vật. Và cũng có thể nói; Sự vật đã ý thức Ta. – Thần hoa đã hiện, Những đêm Liêu-Trai…
Trí thức chỉ là Ý THỨC. Bằng CẢM THÔNG.
Cần gỡ cái chốt nhất thời. Cần rửa những hạt trai trong nước giếng Trọng Thủy, hầu trở lại vẻ trong sáng muôn đời. Tới cái “Ta Thuần Túy”.
Trong Đẹp, Thật. Ba ngôi trời lý tưởng. Chói lọi trong hào quang Nhạc.
Trí giả, ý thức được Nhạc, sáng tạo được Điệu, thấu tới Nhạc-đòi-đời. Thức giả, cảm được Điệu, hội được Nhạc, tái tạo mình ra vũ trụ “Thi sĩ” và “thi nhân”. Trong muôn vàn địa hạt.
Trí thức phải là Sáng tạo, – dù chỉ là tái tạo. Sáng tạo không ngừng. Cho nên không có một “địa vị” trí thức, một “giai cấp” trí thức chỉ việc đạt tới một lần trong đời rồi bình an tọa hưởng. Trí thức không phải là một “danh phận”, – cũng như Ái-Tình không cứ ở “duyên phận”. Duyên phận làm một độ đường cùng, mà Ái-Tình là dòng sông không bến.
Kẻ vô học có thể tới bậc trí thức tuyệt vời, mà một ông thầy thuốc, một ông thầy kiện, một ông thầy học thường khi cũng chỉ là “một ông thầy”, nêu không thoát ra ngoài cái “học” để tới bậc “trí”, nếu tự mãn ở độ đường cùng: danh phận. – Bậc trí thức suốt đời là “Tình nhân”.
Trí thức không có tính cách “trưởng giả”. Từng phút, từng giây, cảm thông với nguồn đời vô tận, “trổi với dòng sống không cùng…” Trí thức phải giữ thái độ tiên phong.
Sáng tạo và tiên phong: nguyên tắc linh hoạt của Trí Thức Biết vụn vặt, giỏi khéo một bề chưa là Trí Thức: Trí Thức có tinh thần, và tinh thần triết lý “bao quát, tổng hợp”.
Bằng cấp nọ, học khoa kia, chưa là Trí Thức: Trí Thức ở sâu hơn thế, cao hơn thế, rộng hơn thế.
Thấy rộng nghe nhiều chưa là Trí Thức; Trí Thức là mình cảm thông với sự vật, không phải chỉ đứng ngoài sự vật mà “thấy”, mà “nghe”.
Trí “khôn ngoan” không phải là Trí Thức; Trí Thức không vụ lợi.
Trí Thức không phải là “tai mắt xã hội”, không phải là “thượng lưu, quý phái”; Trí Thức là tim óc nhần quần; là cao nhân, là tình chủng.
Trí thức trái với ngu muội “dù học rộng tài cao”, trái với theo-đuôi-người “dù người có hay, có đẹp thật”, trái với chiều thời, trái với đê hạ.
Trí thức tức sáng suốt, tức tự do “cái tự do toàn vẹn của tinh thần”, tức biệt lập “cái biệt lập của áng danh sơn”, tức thanh cao “cái thanh cao không dời đổi của kẻ sĩ, cái thanh cao không vụ ích của ngọc châu”.
Học tới một trình độ nào, “sơ đẳng” hay “cao đẳng” hay cao hơn thế nữa, dù về khoa nào, chỉ được gọi là “học thức” không đáng bậc “tri thức”, nếu không có tinh thần tiên phong, tinh thần sáng tạo, không vun trồng cốt cách hiền nhân.
Trí Thức”: mình làm phương tiện cho cứu cánh mình, không ràng buộc bởi những điều sơ đắc, không lúng túng vì những ảnh hưởng ngoài. Học để mà quên LÀ MÌNH, BIẾT MÌNH và TRỌNG MÌNH.
Bậc Trí Thức là kẻ sĩ, người tìm Điệu, người đến Đạo, luôn luôn gắng tìm, và gắng đến. Tạo ra cái “Đẹp”, – dù chỉ trong lòng mình, – để ý thức sự “Thật” muôn đời. Bằng một tâm hồn “trong”.
Tìm đường nhịp nhàng.
Đến cõi siêu việt.
Đạo-lý và Thiên Chức.
Có trí thức mới Sáng-tạo, – dù chỉ tái tạo “Học thức” chỉ có năng lực “phổ thông”. Kẻ “học giả” chỉ sống được vì đã có bậc “trí giả”. Muôn nghìn ông nghè trong muôn nghìn đời họa chăng được công việc gì “có ích”, là làm tỏa lan cái ánh sáng “không vụ ích” của một lời Trang Chu, một câu Lý Bạch.
Mà có sáng tạo mới có “sống” và mới có Đạo-lý: cái phép tắc sống. Cái “biết” của học thức chỉ là cái biết ngừng một chỗ, có chừng hạn. Của Trí Thức, mới là sống uyển chuyển, sinh sôi, vô cùng.
Bạn Trí Thức là người tới cái biết của Thơ, – “Thơ là một cách trí thức cao cấp”, – là người thấm vào cốt sự vật. “Tĩnh tụ” để sáng suốt: cái tuệ giác tuyệt vời của phút lâm chung. Đột nhiên và hoàn toàn, thấu tới cõi vô cùng, trong một giây Lặng lẽ của tâm hồn tươi trong. Phút giây siêu thoát: Phá vỡ cái Tôi nhất thời để sáng tạo cái TA muôn thuở.
Cuộc sáng tạo đầu tiên của trí thức là: TỰ TẠO.
Tự tạo trong một đợt tình trác tuyệt, khi hồn tan trên một nét anh đào.
Tự tạo trong một thế hệ “nhập thiền” trong một “đường thánh giá”
Tự tạo trong một ngọn cỏ gió đùa, trong một cánh hoa nắng giỡn.
Trong một bức tranh, trong một ngọn tháp.
Trong một niềm vĩnh biệt.
Cũng như trong một phút lâm chung.
Cảm xúc. Và cảm thông.
Tự nhận chân và thực hiện bao nhiêu công tự tu.
Nẩy nở và vun trồng ngày nay.
TRÍ THỨC: gốc cây Ta, đầy nhựa Thơ, hút nhận. Nhạc của đất Trời, để trở sinh bao nhiêu Điện, thắm tươi, những hồng SÁNG TẠO dâng lên bàn thờ ĐẠO LÝ, Lẽ-sống trong Đời.
Làm sao ta đã băn khoăn tìm lẽ sống? Tìm lẽ sống?
Lẽ sống là Nhịp Nhàng; siêu thoát; là nhạc,
Lẽ sống là Trong, Đẹp, Thật là Thơ.
“Phù Dung kia chỉ nở một ngày để ngậm ngôi muôn đời xinh đẹp”.
Trí thức chân chính phải nẩy sinh Sáng tạo.
(Nếu không, chỉ là “mọt cách”, là “hủ nho” là “trưởng giả”)
Tinh thần tiên phong. Cốt cách tài tử.
Sáng tạo chân chánh tất nhiên theo Đạo lý.
(Nếu không chỉ là hỗn loạn, là xuẩn động, là vô nghĩa).
Cá tính Độc Lập. Phong độ trượng phu.
Đạo lý của kẻ “Sĩ”.
Không hề trưởng giả, nhưng Vượng giả.
Không lo “thành đạt”, nhưng bao giờ cũng “thông đạt”.
Không làm “thương nhân”, nhưng làm “tao nhân”.
THƠ
TRÍ THỨC – SÁNG TẠO – ĐẠO LÝ – NHẠC
Trí thức kết từ cá nhân. Vào địa hạt xã hội, là văn minh. Về phương diện thực hành, là học thuật.
Một dân tộc không tự ý thức, tất không có trí thức, không có một nền học thuật, không có tài văn minh.
Tất cả các cuộc xây dựng là một Câu Chuyện Tinh Thần.
Tất cả cuộc sống “cuộc sống lộng lẫy” chỉ là một Vấn Đề Tri Thức.
Sưu tầm trích dẫn từ sách Việt Nam Thi nhân tiền chiến tác giả Nguyễn Tấn Long in 1969.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Ngày của mẹ!
Mùng tám tháng ba ngày của mẹ Ơn sinh thành nhớ mãi mẹ ơi Mẹ đã dành cho con tất cả! Tuổi thanh xuân, thời gian, nước mắt. Mùng...
-
Biết bao điều huyền bí Đã có tự bao giờ Thượng đế đã tạo nên, Một bức tranh muôn màu Lộng lẫy và mông lung Dải ngân hà xa cách ...
-
Thơ là gì? – “Thi tại ngôn ngoại”. Là cái gì mà ta không thể giải thích bằng lời; là “cái gì siêu thoát ngoài ước lệ, trên lý trí, nó ru...
-
Ngày nhà giáo Việt Nam ơi Em lấy bút mực làm thơ tặng thầy Thầy cô bến cũ trường xưa Từ từ ẩn hiện lưa thưa xuân về. Lòng thầy bát...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét